Những ngày Tháng Tám năm 1945 là những ngày sục sôi khí thế cách mạng không thể nào quên ở chiến khu Vần – Hiền Lương. Sự ra đời của chi bộ Đảng đầu tiên của khu căn cứ cách mạng Vần – Hiền Lương đánh dấu một sự kiện quan trọng khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng – nhân tố quyết định cho mọi thắng lợi của sự nghiệp cách mạng.
Trước diễn biến của Chiến tranh thế giới lần thứ hai, tháng 6/1944, đồng chí Hoàng Quốc Việt được Xứ ủy Bắc kỳ cử lên Hiền Lương, để kiểm tra tình hình cơ sở và phổ biến những nhiệm vụ mới.
Ở đây, đồng chí Hoàng Quốc Việt đã tổ chức một cuộc họp quan trọng tại nhà ông Quỹ Vĩ (Trần Quang Khải) là người nhà của đồng chí Trần Quang Bình. Thay mặt Xứ ủy Bắc kỳ, đồng chí đã phân tích cụ thể tình hình của nước ta và nhấn mạnh vai trò, nhiệm vụ của căn cứ địa, chính thức công nhận vai trò trọng yếu của căn cứ cách mạng Hiền Lương và quyết định phân công các đồng chí lãnh đạo gồm: đồng chí Bình Phương, Trần Quang Bình và Nguyễn Tạo.
Từ sau cuộc họp này, cơ sở Việt Minh, các đoàn thể thanh niên phản đế, hội phụ nữ, hội nông dân cứu quốc… liên tiếp ra đời và hoạt động mạnh mẽ ở Hiền Lương, Linh Thông và các xã vùng lân cận. Hội thanh niên phản đế do những thanh niên tích cực như: Đào Đình Bảng, Nguyễn Bội Vũ, Nguyễn Mạnh Đức, Nguyễn Thị Hạnh… dẫn đầu tham gia phong trào đọc sách báo, tài liệu tuyên truyền của Đảng, của Mặt trận Việt Minh, học hát những bài ca cách mạng; viết và rải truyền đơn khắp chợ Hiền Lương, chợ Vân Hội và ở những nơi tụ tập đông người, kêu gọi nhân dân đoàn kết chống đế quốc và tay sai, yêu cầu chính quyền cũ không được cản trở hoạt động của phong trào yêu nước. Khí thế cách mạng sục sôi chưa từng có diễn ra ở vùng chiến khu và vùng xung quanh.
Trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng, chính quyền cũ vẫn tồn tại nhưng hầu như bị vô hiệu hóa. Một số người thuộc các tầng lớp trên, kể cả một số tổng, lý cũng tình nguyện tham gia các đoàn thể cứu quốc. Từ thực tế đặt ra đòi hỏi phải thành lập lực lượng vũ trang để chống lại sự đàn áp của kẻ thù và chuẩn bị nổi dậy giành chính quyền khi có thời cơ.
Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp, độc chiếm Đông Dương. Ngày 12/3/1945, Ban Thường vụ Trung ương họp Hội nghị mở rộng tại Đình Bảng (Từ Sơn – Bắc Ninh) và ra Chỉ thị “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”.
Sau khi phân tích tính chất, nguyên nhân của cuộc đảo chính, bản chỉ thị chỉ ra cơ hội của cuộc khởi nghĩa giành chính quyền từ tay kẻ thù đã chín mùi. Khẩu hiệu hành động, từ “đánh đuổi Pháp – Nhật” chuyển sang “đánh đuổi phát xít Nhật”.
Bản chỉ thị của Ban Thường vụ Trung ương như một luồng gió mạnh thổi bùng lên khí thế cách mạng trong cả nước cũng như ở chiến khu Vần – Hiền Lương. Trong tình hình khẩn trương của cách mạng, đồng chí Trần Quốc Hoàn thay mặt Xứ ủy giao nhiệm vụ cho đồng chí Ngô Minh Loan (tức Hoàng Quang Minh) lên chiến khu trực tiếp chỉ đạo phong trào.
Đầu tháng 4/1945, đồng chí Ngô Minh Loan lên Hiền Lương bắt tay ngay vào việc xây dựng, củng cố cơ sở; khẩn trương chuẩn bị lực lượng để giành chính quyền. Với chính sách đoàn kết của Mặt trận Việt Minh và phong trào vận động quần chúng khéo léo, nhân dân Hiền Lương ủng hộ cả vũ khí, tiền bạc cho cách mạng. Ông Phó Chí (Phó Căn) ủng hộ một cỗ súng máy lấy được khi quân Pháp tháo chạy vứt xuống đầm. Nhà giáo Nguyễn Lương Thường ủng hộ 500 viên đạn và một số tiền Đông Dương.
Tổ chức Đảng đầu tiên vùng chiến khu ra đời
Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với chiến khu Vần – Hiền Lương, ngày 6/5/1945, Xứ ủy Bắc Kỳ đã chỉ đạo thành lập một chi bộ Đảng tại Nang Sa gồm 3 đồng chí là: Hoàng Quang Minh (Ngô Minh Loan) và hai đảng viên dự bị là Đặng Bá Lâu và Lê Huy Ấm do đồng chí Hoàng Quang Minh làm Bí thư.
Ngày 7/5/1945, Chi bộ Đảng thị xã Yên Bái được thành lập gồm 3 đồng chí là: Mai Văn Ty, Nguyễn Minh Đăng, Nguyễn Chí Dũng do đồng chí Mai Văn Ty làm Bí thư. Cùng thời gian đó, một chi bộ Đảng ở Đan Thượng được thành lập gồm 4 đảng viên, do đồng chí Trịnh Xuân Tiền làm bí thư.
Các chi bộ Đảng lần lượt ra đời là một sự kiện hết sức có ý nghĩa đối với chiến khu Vần – Hiền Lương, trong việc xây dựng củng cố cơ sở và khẩn trương chuẩn bị mọi điều kiện tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân.
Để đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, cần sự chỉ đạo tập trung, thống nhất, sau khi xin ý kiến của Xứ ủy Bắc Kỳ, trong một thời gian ngắn được Xứ ủy đồng ý, đồng chí Ngô Minh Loan đã hợp nhất 3 chi bộ thành một chi bộ gồm các đảng viên chính thức là: Ngô Minh Loan, Đào Đình Bảng, Mai Văn Ty, Nguyễn Hữu Minh, Trần Văn Cần, Nguyễn Minh Đăng… và một số đảng viên dự bị như Đặng Bá Lâu, Lê Huy Ấm, Ma Văn Quế…; đồng chí Ngô Minh Loan được bầu làm Bí thư.
Sự ra đời của chi bộ Đảng đầu tiên của khu căn cứ cách mạng Vần – Hiền Lương đánh dấu một sự kiện quan trọng khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng – nhân tố quyết định cho mọi thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Tại hội nghị hợp nhất 3 chi bộ, các đồng chí trong chi bộ đã bàn kế hoạch thực hiện nhiệm vụ của Trung ương và Xứ ủy Bắc Kỳ.
Hội nghị đã ra nghị quyết xác định nhiệm vụ trước mắt gồm 3 điểm: đẩy mạnh hoạt động của các đoàn thể cứu quốc, mở rộng công tác tuyên truyền cách mạng cho quần chúng nhân dân các xã vùng xung quanh; xây dựng lực lượng vũ trang bằng cách lựa chọn anh em khỏe mạnh, hăng hái trong các đoàn thể cứu quốc; chuẩn bị lực lượng cướp chính quyền; tìm cách phân hóa hàng ngũ tổng lý, kỳ hào trong bộ máy cai trị của chế độ cũ, tranh thủ những phần tử thức thời cô lập các phần tử lạc hậu, phản động.
Sau một thời gian rất ngắn, ngày 14/5/1945, tại chùa Hiền Lương, trước sự chứng kiến của đông đảo quần chúng nhân dân các làng, xã vùng xung quanh, Đội du kích Âu Cơ được thành lập và ra mắt gồm 33 đội viên với 11 khẩu súng, hàng nghìn viên đạn. Lần đầu tiên, trước cửa chùa, lá cờ cách mạng xuất hiện tung bay trước gió, được quần chúng nhân dân vỗ tay hò reo đón nhận. Đội du kích vinh dự được mang tên: Đội du kích Âu Cơ.
Đồng chí Ngô Minh Loan phụ trách chính trị; đồng chí Bình Phương phụ trách quân sự. Chưa đầy một tháng sau, kể từ ngày thành lập, Đội du kích Âu Cơ đã phát triển lên hàng trăm đội viên, được phiên chế thành 4 trung đội.
Với sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng, bộ máy cai trị của phát xít Nhật ở địa phương gần như tê liệt. Ta chủ trương vẫn để bộ máy cai trị ấy tồn tại nhưng thực chất tổng lý đã ủng hộ và đi theo cách mạng.
Thực hiện chính sách đoàn kết của Mặt trận Việt Minh và thực hiện Nghị quyết của Chi bộ Đảng, một cuộc họp gồm những tổng lý tiến bộ trong vùng được tổ chức tại nhà ông Nguyễn Quỳnh Cư (nhà giáo, nhân sĩ tiến bộ ở Hiền Lương) dưới sự chủ trì của đồng chí Ngô Minh Loan. Sau khi được giải thích chủ trương, đường lối của Đảng, của phong trào cách mạng, vận động họ đóng góp cho cách mạng. Tại cuộc họp này, các tổng lý, kỳ hào đều nhất trí: không nộp thuế, bắt phu, bắt lính cho Nhật; tích cực quyên góp tiền, gạo, vũ khí, xây dựng quỹ ủng hộ cách mạng.
Do sự vận động khôn khéo, khơi dậy lòng yêu nước nên hầu hết các tổng lý, kỳ hào đã đi theo cách mạng. Một số người đã trở thành cốt cán trong Đội Du kích Âu Cơ như: Lý Sâm (Lê Đức Viện), Lý Bình (Phạm Văn Trị), Phó Sinh (Hà Đức Sinh), Lý Huệ (Trân Huệ)…
Trước tình cảnh nhiều nơi nhân dân bị đói (do phát xít Nhật thu thóc, thu thuế của dân) Trung ương kịp thời đề ra khẩu hiệu “phá kho thóc, giải quyết nạn đói cho dân”. Hưởng ứng chủ trương của Đảng, ngày 13/6/1945, Đội du kích Âu Cơ làm nòng cốt đã bố trí lực lượng tiến vào phá kho thóc ở Vân Hội giải quyết nạn đói cho dân. Sau đợt phá kho thóc, chính quyền tay sai của phát xít Nhật ở Yên Bái đưa lính về Vân Hội, tiến ra càn quét ở Hiền Lương, bắt bớ một số người về giam ở Yên Bái.
Ngày 19/6/1945, một toán lính bảo an gồm 50 tên do Tri phủ Trấn Yên An Văn Tùng và Quản Khoát cầm đầu, tiến vào Vần nhằm bóp chết lực lượng vũ trang non trẻ của ta. Đêm ấy, chúng đóng quân ở nhà ông Chánh Khánh.
Nhận được tin báo của quần chúng, Đội du kích đã khẩn trương vạch kế hoạch đánh địch. Từ căn cứ đóng quân ở Đồng Yếng quân ta vận động nhanh chóng vào Vần, bao vây nhà ông Trần Đình Khánh.
Mờ sáng ngày 20/6/1945, quân ta nổ súng, khiến quân địch hoảng sợ chạy trốn lên rừng. Nhằm hạn chế thương vong, tiết kiệm súng đạn, đội du kích do Trương Ngọc Lạc và Hoàng Long phụ trách đã dùng biện pháp thuyết hàng, buộc chúng phải thực hiện yêu sách của ta: trả hết các chính trị phạm; nộp lại tiền thuế đã thu cho Việt Minh; không được cản trở hoạt động của Việt Minh trong vùng.
Trước thất bại của bọn tay sai, phát xít Nhật ở thị xã Yên Bái quyết định tổ chức một trung đội gồm 20 tên lính Nhật hùng hổ kéo vào Mỵ, qua Vần ra Vân Hội hòng tiêu diệt lực lượng vũ trang của ta. Đến khoảng 2 giờ chiều ngày 22/6/1945, chúng bắt 3 chiếc đò chợ Vân Hội chở chúng ra Hiền Lương. Đội du kích của ta dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Ngô Minh Loan đã bí mật cho quân phục kích ở gò Cây Vải gần ngã hai ngòi Vần và ngòi Hạ và hai bên bờ ngòi đầy lau, sậy. Trận phục kích ta đã bắn chìm thuyền chở địch, tiêu diệt 4 tên Nhật. Chúng bắt dân đi chợ về mò đủ 4 xác chết rồi khiêng về sân trường Động Lâm thiêu xác. Thiêu xong chúng mang tro cốt sang ga Ấm Thượng rồi về Yên Bái bằng xe lửa.
Bước ngoặt có ý nghĩa quyết định
Sau chiến công đánh địch ở gò Cây Vải vài ngày, sáng ngày 30/6/1945, lãnh đạo chiến khu Vần – Hiền Lương tổ chức một cuộc mít tinh ở đình Hiền Lương với sự tham gia của đông đảo nhân dân quanh vùng và đại diện Đội du kích Âu Cơ để mừng chiến thắng của lực lượng vũ trang, vừa cổ vũ lực lượng vũ trang vừa gây thanh thế cho Đội du kích Âu Cơ.
Tại cuộc mít tinh, đồng chí Ngô Minh Loan công bố Quyết định của Xứ ủy Bắc Kỳ thành lập Ban cán sự Đảng liên tỉnh Phú – Yên. Ban cán sự gồm 4 đồng chí: đồng chí Ngô Minh Loan được cử làm Bí thư Ban cán sự Đảng; đồng chí Bình Phương là ủy viên – phụ trách quân sự; đồng chí Lê Quang Ấn là ủy viên – phụ trách phong trào ở Phú Thọ; đồng chí Trần Quang Bình là ủy viên. Ngay buổi chiều hôm ấy, Ban Cán sự Đảng Phú – Yên họp và Quyết định thành lập “Ủy ban giải phóng”.
Nhiệm vụ của Ủy ban là lãnh đạo trực tiếp các trung đội vũ trang của chiến khu kết hợp với quần chúng nhân dân tiến hành giải phóng các địa phương lân cận, lập ra các UBND cách mạng lâm thời.
Đến cuối tháng 6, lực lượng vũ trang của chiến khu ngày càng lớn mạnh, công tác tổ chức, hậu cần, huấn luyện và bảo vệ trở nên cấp thiết, Ban cán sự và Ban Chỉ huy quyết định chuyển đại bộ phận lực lượng vũ trang từ Đồng Yếng (Vân Hội) vào Vần tiếp tục huấn luyện, sẵn sàng đảm nhận những nhiệm vụ mới của cách mạng.
Đầu tháng 8/1945, Đội du kích Âu Cơ được đổi tên thành Chi đội Trần Quốc Toản và được phiên chế thành 6 trung đội (quân số của mỗi trung đội tương đương với một đại đội hiện nay). Mỗi trung đội lại được chia thành nhiều phân đội; mỗi phân đội có nhiều tiểu đội.
Sau khi điều một trung đội du kích của chiến khu Vần ra đón bộ phận lính bảo an của cai Tuấn đóng ở đồn Bách Lẫm về địa phương tham gia khởi nghĩa, Ban Chỉ huy quyết định chọn Nghĩa Lộ là nơi đầu tiên để giải phóng vì chiếm được Nghĩa Lộ là cắt đứt được nguồn tiếp tế quan trọng cho quân Nhật; đồng thời, ta có một hậu phương rộng lớn, bảo đảm sức người, sức của và là chỗ dựa lâu dài cho cách mạng.
Trên đường tiến quân qua làng Vần, lực lượng vũ trang của ta được bổ sung thêm một số lính dõng quay về với cách mạng. Từ đây, một trung đội được tách ra đi phá cầu Đá Trắng, cắt đứt đường cơ động của quân Nhật ở thị xã Yên Bái, nhưng đến nơi chúng đã tháo chạy rồi. Một bộ phận chủ yếu của lực lượng vũ trang tiến vào giải phóng Nghĩa Lộ.
Trước sức áp đảo cả về chính trị, quân sự, Tri phủ Văn Chấn Nguyễn Công Thuyết cùng Quản Nhượng mang cờ trắng ra đón quân cách mạng tại cầu ngòi Thia. Như vậy ngày 6/7/1945, Nghĩa Lộ được giải phóng hoàn toàn. Chính quyền cũ ở Nghĩa Lộ đã bàn giao toàn bộ sổ sách, giấy tờ, 60 khẩu súng trường, 14 hòm đạn, 1 máy chữ, cùng kho tàng của cải cho lực lượng cách mạng.
Trong khi lực lượng vũ trang cách mạng đang tấn công giải phóng Nghĩa Lộ, Ban lãnh đạo quyết định chia lực lượng ra làm nhiều mũi, cướp thời cơ giành chính quyền ở nhiều nơi khác. Lực lượng chính do đồng chí Ngô Minh Loan chỉ huy tiến quân ra lập sở chỉ huy ở Âu Lâu, chuẩn bị kế hoạch đánh chiếm thị xã Yên Bái.
Một bộ phận do Trương Tiến Phúc và Hà Đức Sinh chỉ huy tiến về tước khí giới của địch ở huyện Yên Lập để tăng cường trang bị cho đơn vị đi giải phóng huyện Phù Yên. Một bộ phận do Trương Ngọc Lạc chỉ huy tiến lên giải phóng Văn Bàn và Than Uyên.
Sau khi đóng quân, lập sở chỉ huy ở Khánh Môn, xã Âu Lâu, Ban chỉ huy đã vạch kế hoạch giành chính quyền ở huyện Hạ Hòa. Lúc này, tại Hạ Hòa tập trung lực lượng lính bảo an khá đông do Tri huyện Nguyễn Bạt Tụy cầm đầu.
Sáng 2/8/1945, nước sông Hồng lên cao, mưa lũ lớn đổ về, thực hiện kế hoạch của Sở chỉ huy hơn 70 chiến sĩ lực lượng vũ trang, rạng sáng đã tập trung ở bến đò Linh Thông xuôi sông Hồng về cửa ngòi Lửa gần sát huyện lỵ Hạ Hòa. Lực lượng vũ trang chiến khu cùng với lực lượng vũ trang và nhân dân các xã ở Hạ Hòa được chia thành 4 tổ do đồng chí Trịnh Xuân Tiến chỉ huy.
Các tổ đều bí mật, bất ngờ đi bằng thuyền rồi tiến về bao vây bọn lính bảo an, một bộ phận đốt pháo nghi binh, một bộ phận treo cờ, khẩu hiệu các đường phố ở huyện lỵ, gây áp lực với quân địch. Chỉ trong vòng hơn một giờ đồng hồ, lực lượng cách mạng đã làm chủ hoàn toàn huyện lỵ. Như vậy, Hạ Hòa là huyện khởi nghĩa giành chính quyền sớm nhất của tỉnh Phú Thọ.
Tại chỉ huy sở ở Khánh Môn – Âu Lâu, đồng chí Ngô Minh Loan cùng Ban Chỉ huy vạch kế hoạch khởi nghĩa giành chính quyền ở thị xã Yên Bái. Chi bộ Đảng chiến khu giao nhiệm vụ cho đảng viên thị xã có kế hoạch đón lực lượng vũ trang và vũ khí từ chiến khu đưa ra vượt sông Hồng sang thị xã, vận động quần chúng nổi dậy mít tinh, biểu tình gây sức ép từ bên trong, chuẩn bị cơ sở hậu cần tiếp tế cho lực lượng vũ trang, chuẩn bị cơ sở cứu chữa thương binh…
Đêm 17 rạng sáng 18/8/1945, quân giải phóng vượt sông tấn công vào thị xã. Hai bên giao tranh quyết liệt cho đến 9 giờ sáng. Quân Nhật phải gửi thư xin đầu hàng. Ngày 19/8, tại dinh Tri phủ Trấn Yên, quân Nhật ký biên bản đầu hàng Việt Minh vô điều kiện, trước khí thế cách mạng như vũ bão của quân giải phóng và các tầng lớp nhân dân. Ngày 21/8, quân giải phóng tiếp quản thị xã.
Ngày 22/8/1945, một cuộc mít tinh lớn gồm đông đảo các tầng lớp nhân dân, lực lượng vũ trang được tổ chức tại Vườn hoa Nhà Kèn, mừng cuộc khởi nghĩa thành công giành chính quyền về tay nhân dân, chấm dứt ách thống trị của thực dân phong kiến và phát xít Nhật.
Tại cuộc mít tinh lớn, Ủy ban Cách mạng lâm thời chính thức được thành lập và ra mắt quốc dân đồng bào. Ủy ban do đồng chí Ngô Minh Loan – Bí thư Ban cán sự Đảng làm Chủ tịch, đồng chí Nguyễn Phúc làm Phó Chủ tịch.
Trong cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền, dưới sự lãnh đạo của Ban cán sự Đảng liên tỉnh Phú – Yên, lực lượng vũ trang cách mạng mà tiền thân là Đội du kích Âu Cơ từ nhân dân mà ra, được nhân dân đùm bọc, nuôi dưỡng, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của lịch sử giao phó.
Cuộc Tổng khởi nghĩa cách mạng Tháng Tám thành công, nhân dân Yên Bái cũng như nhân dân cả nước từ thân phận của người nô lệ đã trở thành người dân của một nước độc lập, có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.
Cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám thành công, đưa nước ta bước vào một kỷ nguyên mới – kỷ nguyên độc lập dân tộc, gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản ViệNhững ngày Tháng Tám năm 1945 là những ngày sục sôi khí thế cách mạng không thể nào quên ở chiến khu Vần – Hiền Lương. Sự ra đời của chi bộ Đảng đầu tiên của khu căn cứ cách mạng Vần – Hiền Lương đánh dấu một sự kiện quan trọng khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng – nhân tố quyết định cho mọi thắng lợi của sự nghiệp cách mạng.
Trước diễn biến của Chiến tranh thế giới lần thứ hai, tháng 6/1944, đồng chí Hoàng Quốc Việt được Xứ ủy Bắc kỳ cử lên Hiền Lương, để kiểm tra tình hình cơ sở và phổ biến những nhiệm vụ mới.
Ở đây, đồng chí Hoàng Quốc Việt đã tổ chức một cuộc họp quan trọng tại nhà ông Quỹ Vĩ (Trần Quang Khải) là người nhà của đồng chí Trần Quang Bình. Thay mặt Xứ ủy Bắc kỳ, đồng chí đã phân tích cụ thể tình hình của nước ta và nhấn mạnh vai trò, nhiệm vụ của căn cứ địa, chính thức công nhận vai trò trọng yếu của căn cứ cách mạng Hiền Lương và quyết định phân công các đồng chí lãnh đạo gồm: đồng chí Bình Phương, Trần Quang Bình và Nguyễn Tạo.
Từ sau cuộc họp này, cơ sở Việt Minh, các đoàn thể thanh niên phản đế, hội phụ nữ, hội nông dân cứu quốc… liên tiếp ra đời và hoạt động mạnh mẽ ở Hiền Lương, Linh Thông và các xã vùng lân cận. Hội thanh niên phản đế do những thanh niên tích cực như: Đào Đình Bảng, Nguyễn Bội Vũ, Nguyễn Mạnh Đức, Nguyễn Thị Hạnh… dẫn đầu tham gia phong trào đọc sách báo, tài liệu tuyên truyền của Đảng, của Mặt trận Việt Minh, học hát những bài ca cách mạng; viết và rải truyền đơn khắp chợ Hiền Lương, chợ Vân Hội và ở những nơi tụ tập đông người, kêu gọi nhân dân đoàn kết chống đế quốc và tay sai, yêu cầu chính quyền cũ không được cản trở hoạt động của phong trào yêu nước. Khí thế cách mạng sục sôi chưa từng có diễn ra ở vùng chiến khu và vùng xung quanh.
Trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng, chính quyền cũ vẫn tồn tại nhưng hầu như bị vô hiệu hóa. Một số người thuộc các tầng lớp trên, kể cả một số tổng, lý cũng tình nguyện tham gia các đoàn thể cứu quốc. Từ thực tế đặt ra đòi hỏi phải thành lập lực lượng vũ trang để chống lại sự đàn áp của kẻ thù và chuẩn bị nổi dậy giành chính quyền khi có thời cơ.
Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp, độc chiếm Đông Dương. Ngày 12/3/1945, Ban Thường vụ Trung ương họp Hội nghị mở rộng tại Đình Bảng (Từ Sơn – Bắc Ninh) và ra Chỉ thị “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”.
Sau khi phân tích tính chất, nguyên nhân của cuộc đảo chính, bản chỉ thị chỉ ra cơ hội của cuộc khởi nghĩa giành chính quyền từ tay kẻ thù đã chín mùi. Khẩu hiệu hành động, từ “đánh đuổi Pháp – Nhật” chuyển sang “đánh đuổi phát xít Nhật”.
Bản chỉ thị của Ban Thường vụ Trung ương như một luồng gió mạnh thổi bùng lên khí thế cách mạng trong cả nước cũng như ở chiến khu Vần – Hiền Lương. Trong tình hình khẩn trương của cách mạng, đồng chí Trần Quốc Hoàn thay mặt Xứ ủy giao nhiệm vụ cho đồng chí Ngô Minh Loan (tức Hoàng Quang Minh) lên chiến khu trực tiếp chỉ đạo phong trào.
Đầu tháng 4/1945, đồng chí Ngô Minh Loan lên Hiền Lương bắt tay ngay vào việc xây dựng, củng cố cơ sở; khẩn trương chuẩn bị lực lượng để giành chính quyền. Với chính sách đoàn kết của Mặt trận Việt Minh và phong trào vận động quần chúng khéo léo, nhân dân Hiền Lương ủng hộ cả vũ khí, tiền bạc cho cách mạng. Ông Phó Chí (Phó Căn) ủng hộ một cỗ súng máy lấy được khi quân Pháp tháo chạy vứt xuống đầm. Nhà giáo Nguyễn Lương Thường ủng hộ 500 viên đạn và một số tiền Đông Dương.
Tổ chức Đảng đầu tiên vùng chiến khu ra đời
Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với chiến khu Vần – Hiền Lương, ngày 6/5/1945, Xứ ủy Bắc Kỳ đã chỉ đạo thành lập một chi bộ Đảng tại Nang Sa gồm 3 đồng chí là: Hoàng Quang Minh (Ngô Minh Loan) và hai đảng viên dự bị là Đặng Bá Lâu và Lê Huy Ấm do đồng chí Hoàng Quang Minh làm Bí thư.
Ngày 7/5/1945, Chi bộ Đảng thị xã Yên Bái được thành lập gồm 3 đồng chí là: Mai Văn Ty, Nguyễn Minh Đăng, Nguyễn Chí Dũng do đồng chí Mai Văn Ty làm Bí thư. Cùng thời gian đó, một chi bộ Đảng ở Đan Thượng được thành lập gồm 4 đảng viên, do đồng chí Trịnh Xuân Tiền làm bí thư.
Các chi bộ Đảng lần lượt ra đời là một sự kiện hết sức có ý nghĩa đối với chiến khu Vần – Hiền Lương, trong việc xây dựng củng cố cơ sở và khẩn trương chuẩn bị mọi điều kiện tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân.
Để đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, cần sự chỉ đạo tập trung, thống nhất, sau khi xin ý kiến của Xứ ủy Bắc Kỳ, trong một thời gian ngắn được Xứ ủy đồng ý, đồng chí Ngô Minh Loan đã hợp nhất 3 chi bộ thành một chi bộ gồm các đảng viên chính thức là: Ngô Minh Loan, Đào Đình Bảng, Mai Văn Ty, Nguyễn Hữu Minh, Trần Văn Cần, Nguyễn Minh Đăng… và một số đảng viên dự bị như Đặng Bá Lâu, Lê Huy Ấm, Ma Văn Quế…; đồng chí Ngô Minh Loan được bầu làm Bí thư.
Sự ra đời của chi bộ Đảng đầu tiên của khu căn cứ cách mạng Vần – Hiền Lương đánh dấu một sự kiện quan trọng khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng – nhân tố quyết định cho mọi thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Tại hội nghị hợp nhất 3 chi bộ, các đồng chí trong chi bộ đã bàn kế hoạch thực hiện nhiệm vụ của Trung ương và Xứ ủy Bắc Kỳ.
Hội nghị đã ra nghị quyết xác định nhiệm vụ trước mắt gồm 3 điểm: đẩy mạnh hoạt động của các đoàn thể cứu quốc, mở rộng công tác tuyên truyền cách mạng cho quần chúng nhân dân các xã vùng xung quanh; xây dựng lực lượng vũ trang bằng cách lựa chọn anh em khỏe mạnh, hăng hái trong các đoàn thể cứu quốc; chuẩn bị lực lượng cướp chính quyền; tìm cách phân hóa hàng ngũ tổng lý, kỳ hào trong bộ máy cai trị của chế độ cũ, tranh thủ những phần tử thức thời cô lập các phần tử lạc hậu, phản động.
Sau một thời gian rất ngắn, ngày 14/5/1945, tại chùa Hiền Lương, trước sự chứng kiến của đông đảo quần chúng nhân dân các làng, xã vùng xung quanh, Đội du kích Âu Cơ được thành lập và ra mắt gồm 33 đội viên với 11 khẩu súng, hàng nghìn viên đạn. Lần đầu tiên, trước cửa chùa, lá cờ cách mạng xuất hiện tung bay trước gió, được quần chúng nhân dân vỗ tay hò reo đón nhận. Đội du kích vinh dự được mang tên: Đội du kích Âu Cơ.
Đồng chí Ngô Minh Loan phụ trách chính trị; đồng chí Bình Phương phụ trách quân sự. Chưa đầy một tháng sau, kể từ ngày thành lập, Đội du kích Âu Cơ đã phát triển lên hàng trăm đội viên, được phiên chế thành 4 trung đội.
Với sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng, bộ máy cai trị của phát xít Nhật ở địa phương gần như tê liệt. Ta chủ trương vẫn để bộ máy cai trị ấy tồn tại nhưng thực chất tổng lý đã ủng hộ và đi theo cách mạng.
Thực hiện chính sách đoàn kết của Mặt trận Việt Minh và thực hiện Nghị quyết của Chi bộ Đảng, một cuộc họp gồm những tổng lý tiến bộ trong vùng được tổ chức tại nhà ông Nguyễn Quỳnh Cư (nhà giáo, nhân sĩ tiến bộ ở Hiền Lương) dưới sự chủ trì của đồng chí Ngô Minh Loan. Sau khi được giải thích chủ trương, đường lối của Đảng, của phong trào cách mạng, vận động họ đóng góp cho cách mạng. Tại cuộc họp này, các tổng lý, kỳ hào đều nhất trí: không nộp thuế, bắt phu, bắt lính cho Nhật; tích cực quyên góp tiền, gạo, vũ khí, xây dựng quỹ ủng hộ cách mạng.
Do sự vận động khôn khéo, khơi dậy lòng yêu nước nên hầu hết các tổng lý, kỳ hào đã đi theo cách mạng. Một số người đã trở thành cốt cán trong Đội Du kích Âu Cơ như: Lý Sâm (Lê Đức Viện), Lý Bình (Phạm Văn Trị), Phó Sinh (Hà Đức Sinh), Lý Huệ (Trân Huệ)…
Trước tình cảnh nhiều nơi nhân dân bị đói (do phát xít Nhật thu thóc, thu thuế của dân) Trung ương kịp thời đề ra khẩu hiệu “phá kho thóc, giải quyết nạn đói cho dân”. Hưởng ứng chủ trương của Đảng, ngày 13/6/1945, Đội du kích Âu Cơ làm nòng cốt đã bố trí lực lượng tiến vào phá kho thóc ở Vân Hội giải quyết nạn đói cho dân. Sau đợt phá kho thóc, chính quyền tay sai của phát xít Nhật ở Yên Bái đưa lính về Vân Hội, tiến ra càn quét ở Hiền Lương, bắt bớ một số người về giam ở Yên Bái.
Ngày 19/6/1945, một toán lính bảo an gồm 50 tên do Tri phủ Trấn Yên An Văn Tùng và Quản Khoát cầm đầu, tiến vào Vần nhằm bóp chết lực lượng vũ trang non trẻ của ta. Đêm ấy, chúng đóng quân ở nhà ông Chánh Khánh.
Nhận được tin báo của quần chúng, Đội du kích đã khẩn trương vạch kế hoạch đánh địch. Từ căn cứ đóng quân ở Đồng Yếng quân ta vận động nhanh chóng vào Vần, bao vây nhà ông Trần Đình Khánh.
Mờ sáng ngày 20/6/1945, quân ta nổ súng, khiến quân địch hoảng sợ chạy trốn lên rừng. Nhằm hạn chế thương vong, tiết kiệm súng đạn, đội du kích do Trương Ngọc Lạc và Hoàng Long phụ trách đã dùng biện pháp thuyết hàng, buộc chúng phải thực hiện yêu sách của ta: trả hết các chính trị phạm; nộp lại tiền thuế đã thu cho Việt Minh; không được cản trở hoạt động của Việt Minh trong vùng.
Trước thất bại của bọn tay sai, phát xít Nhật ở thị xã Yên Bái quyết định tổ chức một trung đội gồm 20 tên lính Nhật hùng hổ kéo vào Mỵ, qua Vần ra Vân Hội hòng tiêu diệt lực lượng vũ trang của ta. Đến khoảng 2 giờ chiều ngày 22/6/1945, chúng bắt 3 chiếc đò chợ Vân Hội chở chúng ra Hiền Lương. Đội du kích của ta dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Ngô Minh Loan đã bí mật cho quân phục kích ở gò Cây Vải gần ngã hai ngòi Vần và ngòi Hạ và hai bên bờ ngòi đầy lau, sậy. Trận phục kích ta đã bắn chìm thuyền chở địch, tiêu diệt 4 tên Nhật. Chúng bắt dân đi chợ về mò đủ 4 xác chết rồi khiêng về sân trường Động Lâm thiêu xác. Thiêu xong chúng mang tro cốt sang ga Ấm Thượng rồi về Yên Bái bằng xe lửa.
Bước ngoặt có ý nghĩa quyết định
Sau chiến công đánh địch ở gò Cây Vải vài ngày, sáng ngày 30/6/1945, lãnh đạo chiến khu Vần – Hiền Lương tổ chức một cuộc mít tinh ở đình Hiền Lương với sự tham gia của đông đảo nhân dân quanh vùng và đại diện Đội du kích Âu Cơ để mừng chiến thắng của lực lượng vũ trang, vừa cổ vũ lực lượng vũ trang vừa gây thanh thế cho Đội du kích Âu Cơ.
Tại cuộc mít tinh, đồng chí Ngô Minh Loan công bố Quyết định của Xứ ủy Bắc Kỳ thành lập Ban cán sự Đảng liên tỉnh Phú – Yên. Ban cán sự gồm 4 đồng chí: đồng chí Ngô Minh Loan được cử làm Bí thư Ban cán sự Đảng; đồng chí Bình Phương là ủy viên – phụ trách quân sự; đồng chí Lê Quang Ấn là ủy viên – phụ trách phong trào ở Phú Thọ; đồng chí Trần Quang Bình là ủy viên. Ngay buổi chiều hôm ấy, Ban Cán sự Đảng Phú – Yên họp và Quyết định thành lập “Ủy ban giải phóng”.
Nhiệm vụ của Ủy ban là lãnh đạo trực tiếp các trung đội vũ trang của chiến khu kết hợp với quần chúng nhân dân tiến hành giải phóng các địa phương lân cận, lập ra các UBND cách mạng lâm thời.
Đến cuối tháng 6, lực lượng vũ trang của chiến khu ngày càng lớn mạnh, công tác tổ chức, hậu cần, huấn luyện và bảo vệ trở nên cấp thiết, Ban cán sự và Ban Chỉ huy quyết định chuyển đại bộ phận lực lượng vũ trang từ Đồng Yếng (Vân Hội) vào Vần tiếp tục huấn luyện, sẵn sàng đảm nhận những nhiệm vụ mới của cách mạng.
Đầu tháng 8/1945, Đội du kích Âu Cơ được đổi tên thành Chi đội Trần Quốc Toản và được phiên chế thành 6 trung đội (quân số của mỗi trung đội tương đương với một đại đội hiện nay). Mỗi trung đội lại được chia thành nhiều phân đội; mỗi phân đội có nhiều tiểu đội.
Sau khi điều một trung đội du kích của chiến khu Vần ra đón bộ phận lính bảo an của cai Tuấn đóng ở đồn Bách Lẫm về địa phương tham gia khởi nghĩa, Ban Chỉ huy quyết định chọn Nghĩa Lộ là nơi đầu tiên để giải phóng vì chiếm được Nghĩa Lộ là cắt đứt được nguồn tiếp tế quan trọng cho quân Nhật; đồng thời, ta có một hậu phương rộng lớn, bảo đảm sức người, sức của và là chỗ dựa lâu dài cho cách mạng.
Trên đường tiến quân qua làng Vần, lực lượng vũ trang của ta được bổ sung thêm một số lính dõng quay về với cách mạng. Từ đây, một trung đội được tách ra đi phá cầu Đá Trắng, cắt đứt đường cơ động của quân Nhật ở thị xã Yên Bái, nhưng đến nơi chúng đã tháo chạy rồi. Một bộ phận chủ yếu của lực lượng vũ trang tiến vào giải phóng Nghĩa Lộ.
Trước sức áp đảo cả về chính trị, quân sự, Tri phủ Văn Chấn Nguyễn Công Thuyết cùng Quản Nhượng mang cờ trắng ra đón quân cách mạng tại cầu ngòi Thia. Như vậy ngày 6/7/1945, Nghĩa Lộ được giải phóng hoàn toàn. Chính quyền cũ ở Nghĩa Lộ đã bàn giao toàn bộ sổ sách, giấy tờ, 60 khẩu súng trường, 14 hòm đạn, 1 máy chữ, cùng kho tàng của cải cho lực lượng cách mạng.
Trong khi lực lượng vũ trang cách mạng đang tấn công giải phóng Nghĩa Lộ, Ban lãnh đạo quyết định chia lực lượng ra làm nhiều mũi, cướp thời cơ giành chính quyền ở nhiều nơi khác. Lực lượng chính do đồng chí Ngô Minh Loan chỉ huy tiến quân ra lập sở chỉ huy ở Âu Lâu, chuẩn bị kế hoạch đánh chiếm thị xã Yên Bái.
Một bộ phận do Trương Tiến Phúc và Hà Đức Sinh chỉ huy tiến về tước khí giới của địch ở huyện Yên Lập để tăng cường trang bị cho đơn vị đi giải phóng huyện Phù Yên. Một bộ phận do Trương Ngọc Lạc chỉ huy tiến lên giải phóng Văn Bàn và Than Uyên.
Sau khi đóng quân, lập sở chỉ huy ở Khánh Môn, xã Âu Lâu, Ban chỉ huy đã vạch kế hoạch giành chính quyền ở huyện Hạ Hòa. Lúc này, tại Hạ Hòa tập trung lực lượng lính bảo an khá đông do Tri huyện Nguyễn Bạt Tụy cầm đầu.
Sáng 2/8/1945, nước sông Hồng lên cao, mưa lũ lớn đổ về, thực hiện kế hoạch của Sở chỉ huy hơn 70 chiến sĩ lực lượng vũ trang, rạng sáng đã tập trung ở bến đò Linh Thông xuôi sông Hồng về cửa ngòi Lửa gần sát huyện lỵ Hạ Hòa. Lực lượng vũ trang chiến khu cùng với lực lượng vũ trang và nhân dân các xã ở Hạ Hòa được chia thành 4 tổ do đồng chí Trịnh Xuân Tiến chỉ huy.
Các tổ đều bí mật, bất ngờ đi bằng thuyền rồi tiến về bao vây bọn lính bảo an, một bộ phận đốt pháo nghi binh, một bộ phận treo cờ, khẩu hiệu các đường phố ở huyện lỵ, gây áp lực với quân địch. Chỉ trong vòng hơn một giờ đồng hồ, lực lượng cách mạng đã làm chủ hoàn toàn huyện lỵ. Như vậy, Hạ Hòa là huyện khởi nghĩa giành chính quyền sớm nhất của tỉnh Phú Thọ.
Tại chỉ huy sở ở Khánh Môn – Âu Lâu, đồng chí Ngô Minh Loan cùng Ban Chỉ huy vạch kế hoạch khởi nghĩa giành chính quyền ở thị xã Yên Bái. Chi bộ Đảng chiến khu giao nhiệm vụ cho đảng viên thị xã có kế hoạch đón lực lượng vũ trang và vũ khí từ chiến khu đưa ra vượt sông Hồng sang thị xã, vận động quần chúng nổi dậy mít tinh, biểu tình gây sức ép từ bên trong, chuẩn bị cơ sở hậu cần tiếp tế cho lực lượng vũ trang, chuẩn bị cơ sở cứu chữa thương binh…
Đêm 17 rạng sáng 18/8/1945, quân giải phóng vượt sông tấn công vào thị xã. Hai bên giao tranh quyết liệt cho đến 9 giờ sáng. Quân Nhật phải gửi thư xin đầu hàng. Ngày 19/8, tại dinh Tri phủ Trấn Yên, quân Nhật ký biên bản đầu hàng Việt Minh vô điều kiện, trước khí thế cách mạng như vũ bão của quân giải phóng và các tầng lớp nhân dân. Ngày 21/8, quân giải phóng tiếp quản thị xã.
Ngày 22/8/1945, một cuộc mít tinh lớn gồm đông đảo các tầng lớp nhân dân, lực lượng vũ trang được tổ chức tại Vườn hoa Nhà Kèn, mừng cuộc khởi nghĩa thành công giành chính quyền về tay nhân dân, chấm dứt ách thống trị của thực dân phong kiến và phát xít Nhật.
Tại cuộc mít tinh lớn, Ủy ban Cách mạng lâm thời chính thức được thành lập và ra mắt quốc dân đồng bào. Ủy ban do đồng chí Ngô Minh Loan – Bí thư Ban cán sự Đảng làm Chủ tịch, đồng chí Nguyễn Phúc làm Phó Chủ tịch.
Trong cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền, dưới sự lãnh đạo của Ban cán sự Đảng liên tỉnh Phú – Yên, lực lượng vũ trang cách mạng mà tiền thân là Đội du kích Âu Cơ từ nhân dân mà ra, được nhân dân đùm bọc, nuôi dưỡng, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của lịch sử giao phó.
Cuộc Tổng khởi nghĩa cách mạng Tháng Tám thành công, nhân dân Yên Bái cũng như nhân dân cả nước từ thân phận của người nô lệ đã trở thành người dân của một nước độc lập, có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.
Cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám thành công, đưa nước ta bước vào một kỷ nguyên mới – kỷ nguyên độc lập dân tộc, gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ mốc lịch sử đó, đất nước ta liên tiếp giành được từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, từng bước sánh vai với các nước phát triển trên thế giới, trong xây dựng và phát triển.